Ở Việt Nam, theo quan niệm thông tục, người ta cho rằng, hổ là chúa tể của muôn loài muông thú. Trong văn hóa, hổ xếp hàng thứ ba trong 12 chi, năm Dần cầm tinh cọp, là một hình tượng đa nghĩa vừa phức tạp trong tâm linh người Việt, vừa là ác thú, là thần hộ mệnh. Có hình hổ trấn giữ ở ngưỡng cửa là tà ma không dám xâm nhập. Hổ là ác thú mà con người kinh sợ đến độ lập đền thờ để tế lễ vào mỗi dịp cuối năm, như tục thờ thần Hổ, làng Ngọc Cục, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương mà Phạm Đình Hổ (1768-1839) đã kể lại kỹ trong Vũ Trung tùy bút, đến năm 1800, tục mới chấm dứt. Mặt khác, hổ lại là phúc thần được vẽ tranh thờ để trừ tà yểm quái. Tranh hổ còn được bày tại các đền chùa, nhất là các đền thờ Thánh Mẫu. Ngày nay, tại miền Bắc Việt Nam, từ đồng bằng lên miền ngược, nhiều nhà còn sùng tín tranh hổ.
Tranh ngũ hổ - Ảnh: S.T
Việc tồn tại dai dẳng tục thờ thần Bạch Hổ của người Việt cũng như nhiều dân tộc ở miền núi phía Bắc một mặt phản ánh tín ngưỡng nguyên thủy từ rất xa xưa, đồng thời phản ánh tàn dư tôn sùng loài vật này gắn với sự phát triển của đạo Giáo vốn xuất hiện ở Việt Nam chậm nhất là vào khoảng đầu công nguyên. Từ rất lâu trong tín ngưỡng dân gian Việt, hổ được coi là con vật linh thiêng, bởi thế mà danh xưng của nó cũng được thần thánh hóa bằng những cái tên như ngài, ông... Rất nhiều gia đình có tục thờ ông Ba Mươi như một cách để cầu công danh, mang lại sự may mắn. Tranh ngũ hổ của dòng tranh dân gian Hàng Trống đất Thăng Long trở thành dòng tranh thờ nổi tiếng.
Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, con hổ được gắn với tục thờ Mẫu. Dù ở miền Bắc, miền Trung hay miền Nam đều có tục lệ thờ thần Hổ như một biểu tượng của con vật dũng mãnh, uy linh tượng trưng cho sức mạnh có khả năng trấn giữ cửa ải ngũ phương. Trên phương diện này hổ đã hóa thành vật linh thiêng với những cái tên trong huyền thoại dân gian thường gọi: Thần Hổ, sơn quan thần Hổ, Lý nhĩ tướng quân, thần hộ vệ Thành Hoàng, chúa Sơn Lâm, ông Ba Mươi. Trong khi đó, ở miền Nam Việt Nam còn có tên ông Cả Cọp, thần Bạch Hổ... Bùa ông Hổ còn được dán và ếm ngay trước cửa cái ra, vào nhà để trừ tà. Xuất phát từ tục thờ hổ, thần thánh hóa loài vật này, các nghệ nhân dân gian cũng xây dựng biểu tượng hổ qua nhiều chất liệu như: gỗ, đá, vôi giấy, đất nung, tranh vẽ, tranh cắt giấy… Nhưng mẫu tranh được biết đến nhiều nhất là tranh ngũ hổ của phố Hàng Trống (Hà Nội) xưa.
Thần Hổ vừa là huyền thoại vừa là hiện thân của vẻ đẹp dũng mãnh, hiểm ác, vì thế hổ linh được chạm trổ trên các lăng mộ, nhang án, nó được in trên hoa văn gạch ở các móng chùa, đền, miếu cổ xưa với một mô típ đẹp uyển chuyển, nhẹ nhàng và có tính linh thiêng. Hổ đã hóa thân thành vật linh như: Long Hổ hội tượng trưng cho sự quần tụ của giới trí thức nho học (bảng rồng: Tiến sĩ, bảng hổ: Cử nhân). Trong tín ngưỡng dân gian tục thờ Mẫu, người ta thường vẽ tranh ngũ hổ để tượng trưng cho ngũ phương. Ngoài mô tả chạm trổ đá, gỗ và in hoa văn thần Hổ trên gạch, không ít các cổng đền, miếu, bệ thờ, án gian trong gia đình đều chạm khắc, hoặc đắp hổ phù nhô ra, miệng há to dữ tợn xung quanh răng nanh đâm ra như một cái hang. Trong một số hoàn cảnh đặc biệt, thần Hổ trắng còn là biểu tượng của thần chữa bệnh và thần tài của một số gia đình đang buôn bán phát lộc. Hằng ngày, đèn nhang, lễ vật bằng trứng sống đều đặn, coi đó như linh vật trong tâm thức, tín ngưỡng dân gian. Việc thờ thần Hổ gắn với việc thờ Mẫu trong dân gian là một lệ tục tín ngưỡng văn hóa tâm linh đã trải qua nhiều mốc thời gian cho đến ngày nay vẫn đang tồn tại bóng dáng ở những ban thờ Mẫu, ở chùa, đền và miếu. Ở những nơi này, ngôi đền nào cũng có đắp tượng hổ ở cửa vào, coi như thần tướng gác đền và thần tướng này cũng được khách đi lễ thắp hương, khấn vái, chẳng hạn như người dân lập miếu thờ hổ ở vùng Mỹ Phước, TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Vào những ngày rằm, mồng 1 hoặc lễ chạp, ngoài hương hoa, những người lớn tuổi còn cúng một miếng thịt heo sống trên bàn thờ ông Hổ. Trong tục thờ, có gia đình thờ tranh ngũ hổ, có gia đình chỉ thờ một ông. Những người thờ phụng ông Hổ đều tin rằng có một sức mạnh siêu nhiên phù hộ cho gia trạch bình an, loại trừ tai nạn. Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho rằng: tục thờ này bắt nguồn từ một cuộc sống nguyên thủy, khi con người còn sống trong điều kiện săn bắt, hái lượm hoặc giai đoạn đầu của cuộc sống nông nghiệp, thì hổ chính là sức mạnh thiên nhiên gần gũi và là tai họa đối với con người, do đó phải thờ hổ. Đặc biệt là do khiếp sợ oai linh thần Hổ, người dân miền sơn cước luôn thờ cúng chúa sơn lâm.
Con hổ luôn đe dọa đời sống con người nên một số địa phương đã có tục thờ thần Hổ. Tục này xuất phát từ làng Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Đến thế kỷ XVI, XVII, khi lưu dân đến khai phá đất Nam Bộ, một vùng hoang dã mà có thời “dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua”, thì việc thờ hổ được xem như một nhu cầu thiết thực đối với đời sống tâm linh, nên thời bấy giờ ở Nam Bộ có rất nhiều miếu thờ hổ. Có nơi đúc thành tượng hổ uy nghi, có nơi thờ tranh ngũ hổ, quanh năm khói hương nghi ngút. Đối với người miền Tây thì những câu chuyện về hùm beo, rắn khổng lồ vẫn luôn là đề tài hấp dẫn, loài cọp dữ, loài vật hấp dẫn chỉ đứng sau rắn hổ mây khổng lồ trong những câu chuyện đường rừng, nhằm khắc họa lại một phần cuộc sống sông nước miền Tây thời xưa. Ở vùng sông nước miền Tây, lại có đình, đền, miếu thờ ông Cọp hay ông Cả Cọp và thay vì thờ thần thánh, người ta lại khói hương nghi ngút, khấn vái thành kính loài vật được cho là thú dữ, sợ hãi và tôn kính cọp, nên người dân lập đình, miếu thờ cọp hằng năm làm heo cống nạp, cầu được bình an, không bị loài hổ trả thù, một số dòng họ còn đổi cả họ vì kinh sợ hổ bắt người để trả thù mà lập miếu thờ phụng cầu an. Người miền Tây còn quan niệm rằng rừng thiêng, nước độc luôn có chủ nhân của rừng núi và hổ là chúa sơn lâm, thợ săn nên tránh nó nếu không cần thiết.
Không chỉ người Việt, một số đồng bào dân tộc thiểu số cũng có tục thờ hổ, trong đó có người Khơ Mú sống ở khu vực Tây Bắc và miền Tây Nghệ An. Một tập quán ăn sâu vào tình cảm và tiềm thức của người Khơ Mú thuộc họ Rvai (hổ), đó là nghi lễ cúng ma nhà (Hrôigang). Vào dịp tết Nguyên đán, người Khơ Mú thuộc họ hổ đã diễn lại các động tác của hổ, vật tổ của dòng họ với ý thức tự nhắc nhở và giáo dục những người trong cộng đồng rằng mình là người họ hổ và có nguồn gốc từ hổ. Với quan niệm, hổ là tổ tiên của mình, người Khơ Mú thuộc họ Rvai kiêng không động tay vào hổ, không săn bắt, giết, ăn thịt hổ. Trong các hội hè, nghi lễ người hóa trang giống như hổ. Khi gặp hổ chết, người Khơ Mú thuộc họ Rvai phải khóc than thật sự như tổ tiên của mình qua đời. Người ta tin rằng, khi chết đi, họ sẽ hóa thành kiếp hổ. Khi còn sống, người ta kiêng đắp chăn sặc sỡ như lông hổ. Khi chết, người ta đắp cho chiếc chăn khác màu lông hổ và đặt chiếc chăn giống màu lông hổ bên cạnh người chết để hồn được siêu thoát và trở về với hổ, có nghĩa là về với tổ tiên.
Người Tà Ôi cũng có tục thờ thần Hổ (Giàng avó). Trong hệ thống thú rừng của người Tà Ôi, con hổ được coi là con vật có sức mạnh nhất. Hổ được người Tà Ôi coi như vị thần bảo hộ cho làng, việc bắt được hổ theo quan niệm của người Tà Ôi được ví như món quà tặng của thần rừng. Việc thờ đầu hổ xuất phát từ niềm tin hổ sẽ báo mộng cho người ta biết làng sắp gặp chuyện như chiến tranh, mất mùa, có dịch bệnh. Các điềm báo xấu đó thông qua giấc mộng đến với người trong làng. Hằng năm, người ta vẫn đến thăm nhà mồ có đầu hổ.
Người dân địa phương ở huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi cũng lập am thờ hổ, họ thờ Bạch Hổ sơn quân, hay còn gọi là ông Hổ đi tu. Bạch Hổ sơn quân là tùy tướng thân cận nhất của Thiên Y A Na. Tương truyền, khi có giặc tới, hổ cùng nữ chúa xung trận, tùy tướng Bạch Hổ sơn quân đến kết liễu rồi mang đầu giặc treo ở một cây đa trong vùng. Khi hết giặc, Bạch Hổ sơn quân vào núi đi tu. Nhớ ơn Bạch Hổ sơn quân, người dân ở Trà Bồng còn lập miếu thờ riêng. Người ta cho biết, vào dịp lễ cúng Thiên Y A Na, cứ khoảng 2-3 giờ sáng, cũng là lúc Bạch Hổ sơn quân xuất hiện. Có niềm tin hoang đường rằng, cứ mỗi lần khấn xin hiện hình là đêm đó Bạch Hổ sẽ xuất hiện. Những ai muốn Bạch Hổ sơn quân hiện hình thì rải cát ở căn nhà phía sau điện thờ. Sáng hôm sau, vào căn nhà này sẽ thấy dấu chân Bạch Hổ to lớn hiện lên theo hướng đi vào đại điện thờ.
Nguồn tin: Mai Hoàng (st)
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn